Thuốc Nexavar 200mg
Thuốc Nexavar 200mg chứa Sorafenib là một loại hoạt chất ức chế multikinase – làm các tế bào ung thư tăng trưởng chậm và cắt đứt nguồn cung cấp máu giúp sự phát triển của các tế bào ung thư. Từ đó, Thuốc Nexavar được chỉ định là dòng thuốc điều trị ung thư tế bào biểu mô thận và ung thư tế bào biểu mô gan và ung thư biểu mô tuyến giáp.
Thuốc Nexavar 200mg là thuốc gì?
Thuốc Nexavar 200mg có chwuas thành phần chính là Sorafenib. Thuốc là một loại liệu pháp nhắm trúng đích trong điều trị ung thư. Liệu pháp này được hiểu là hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu các thụ thể cụ thể đối với tế bào ung thư, do đó làm giảm các tác dụng không mong muốn nguyên nhân do tổn thương tế bào khỏe mạnh gây ra.
Kinase là một loại enzyme thúc đẩy sự phát triển của tế bào. Có nhiều loại kinase, kiểm soát các giai đoạn phát triển khác nhau của tế bào. Thuốc Sorafenib thực sự hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu vào thụ thể RAF kinase và VEGF. Việc ngăn chặn thụ thể RAF kinase làm chậm quá trình phân chia tế bào và sự phát triển của khối u.
Thuốc Nexavar 200mg có tác dụng gì trong điều trị ung thư gan HCC
Thuốc Nexavar 200mg được các bác sĩ kê đơn và sử dụng trong điều trị ung thư gan vì nó có tác dụng ngăn chặn sự tăng trưởng, nhân lên và di căn của các tế bào ung thư gan, từ đó làm chậm tiến triển bệnh giúp bênh nhân kéo dài tuổi thọ từ 8-14 tháng tùy vào giai đoạn bệnh và sức khỏe của bệnh nhân.
Một số các nghiên cứu và thử nghiệm ở bệnh nhân ung thư gan
Nghiên cứu 3 (nghiên cứu 100554) là một nghiên cứu giai đoạn III, quốc tế, đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược trên 602 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan. Nhân khẩu học và các đặc điểm bệnh cơ bản có thể so sánh giữa nhóm sorafenib và nhóm giả dược về tình trạng ECOG (trạng thái 0: 54% so với 54%; trạng thái 1: 38% so với 39%; trạng thái 2: 8% so với 7%) , Giai đoạn TNM (giai đoạn I: <1% so với <1%; giai đoạn II: 10,4% so với 8,3%; giai đoạn III: 37,8% so với 43,6%; giai đoạn IV: 50,8% so với 46,9%), và giai đoạn BCLC (giai đoạn B: 18,1% so với 16,8%; giai đoạn C: 81,6% so với 83,2%; giai đoạn D: <1% so với 0%).
Nghiên cứu đã bị dừng lại sau khi phân tích tạm thời theo kế hoạch về OS đã vượt qua ranh giới hiệu quả xác định trước. Phân tích hệ điều hành này cho thấy lợi thế có ý nghĩa thống kê của sorafenib so với giả dược cho hệ điều hành.
Nhận xét
Đăng nhận xét